Ngày của Mẹ - Nguồn gốc Lễ Mother’s Day và Father’s Day


Ngày của Mẹ - Nguồn gốc Lễ Mother’s Day và Father’s Day
Cách đây gần 100 năm, Anna Jarvis đã vận động chính phủ Hoa Kỳ thành lập một ngày lễ để tri ân những người mẹ. Để cổ động cho việc này bà đã viết bài đăng báo, thuyết trình tại các nhà thờ, gởi thư cho các viên chức chính phủ.

Nguồn gốc Lễ Mother’s Day

Trước tấm lòng và sự kiên trì của bà, ngày 8 tháng 5 năm 1914, Tổng Thống Woodrow Wilson đã ban hành một sắc lệnh chọn ngày Chúa Nhật thứ hai của tháng Năm làm ngày Mother’s Day.  Kể từ đó, hằng năm không phải chỉ tại Hoa Kỳ mà hàng tỷ người tại hơn 65 quốc gia trên thế giới đã chọn ngày này để tôn kính người mẹ.  Hơn một chục quốc gia khác cũng chọn một ngày khác trong tháng Năm để tri ân mẫu thân.
Nguồn gốc
Ann Maria Reeves Jarvis, mẹ của Anna Jarvis, là một phụ nữ đáng kính.  Bà là nguồn động lực khiến cho con gái của bà là Anna Jarvis đã vận động để thiết lập ngày Mother’s Day.  Cuộc đời của Ann Maria Reeves Jarvis đánh dấu bằng những chuỗi ngày yêu thương chồng con, góp phần cho Hội Thánh, và tận tụy với công tác xã hội. Ann Maria Reeves sinh ngày 30/9/1832 tại Culpeper, Virginia, Mỹ.  Bà là con gái của Mục sư Josiah W. Reeves và bà Nancy Kemper Reeves.  Năm 1850, sau khi cha của bà được thuyên chuyển đến làm mục sư cho Hội Thánh Tin  Lành Giám Lý tại Philippi thuộc Barbour County, West Virginia, Ann đã lập gia đình với Granville Jarvis, con trai của một mục sư Baptist tại thị trấn này.  Theo gương của  hai người cha, Granville Jarvis cũng trở thành mục sư và hầu việc Chúa trong Hội Thánh Tin Lành Giám Lý.
Ann Maria Reeves Jarvis đã giúp chồng rất nhiều trong những năm tháng chồng bà phục vụ Chúa.  Bà làm giáo viên Trường Chúa Nhật dạy các em thiếu nhi suốt 25 năm.  Bà đã hổ trợ cho chồng trong việc xây dựng nhà thờ cho Hội Thánh Andrews Methodist Church tại Grafton, West Virginia (1873).  Ann sinh cho chồng 12 người con.  Do hoàn cảnh y tế vệ sinh trong thế kỷ 19, bốn người con mất từ những ngày thơ ấu, bốn đứa khác chết khi chưa đến tuổi trưởng thành.
Từ những kinh nghiệm đau thương mất mát trong gia đình, Ann Maria Reeves Jarvis không muốn thấy cảnh tang tóc xảy ra trong những gia đình khác.  Vấn đề thiếu y tế và vệ sinh là nguyên nhân khiến nhiều trẻ em bị mất sớm vào lúc đó. Khi theo chồng thuyên chuyển từ nơi này sang nơi khác để phục vụ Chúa, bà đã thành lập Câu Lạc Bộ Các Bà Mẹ tại các thành phố Webster, Grafton, Fetterman, Pruntytown và Philippi nhằm cải thiện những điều kiện vệ sinh và sức khỏe trong các gia đình.    Các câu lạc bộ này gây quỹ mua thuốc giúp người nghèo, kiểm soát thực phẩm và sữa mà các tiệm tạp hóa bán cho người dân, mướn người giúp con cái các bà mẹ bị bệnh lao.
Khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ xảy ra,  Ann Maria Reeves Jarvis kêu gọi Câu Lạc Bộ Các Bà Mẹ đứng trung lập về mặt chính trị.  Họ cứu chữa thương binh cả hai bên.  Bà cũng kêu gọi các cộng đồng giữ sự hiệp nhất giữa những khác biệt chính trị trong thời nội chiến. Ann Maria Reeves Jarvis vận động thành lập “Mother’s Friendship Day” – ngày tương thân của các bà mẹ – với mục đích tạo sự hiệp nhất giữa những gia đình đã chia rẽ vì những khác biệt đã xảy ra trong chiến tranh.
Ann Maria Reeves Jarvis ước mong cơ hội thân hữu này sẽ được tổ chức hằng năm và sẽ là dịp để tưởng nhớ các bà mẹ.  Tuy nhiên, những cố gắng đó của bà không thành, Ann Maria Reeves Jarvis về với Chúa vào ngày 9/5/1905 tại Bala-Cynwyd, Philadelphia.
Vận động thành lập Lễ Mother’s Day
Cũng trong khoảng thời gian đó tại New York (1872), Julia Ward Howe, tác giả của bản thánh ca The Battle Hymn of the Republic, công bố Mother’s Day Proclamation.  Dưới sự vận động của Julia Ward Howe, Mother’s Day được tổ chức tại Boston được khoảng 10 năm rồi ngưng.
Anna Marie Jarvis, con gái của Ann Maria Reeves Jarvis, là người rất gắn bó với mẹ mình. Sau khi Ann Maria Reeves Jarvis mất, Anna Jarvis tiếp tục vận động để thành lập ngày Mother’s Day theo ước nguyện của mẹ.
Ngày 12/5/1907, Anna Jarvis cùng những người thân từ Philadelphia trở về Andrews Methodist Church tại Grafton, West Virginia, là hội thánh nơi cha bà từng làm mục sư, mẹ bà đã dạy Trường Chúa Nhật, để tưởng niệm người mẹ là bà Ann Maria Reeves Jarvis.
Anna Jarvis trình bày với hội thánh, nơi cha mẹ bà  đã gây dựng nhà thờ, ước nguyện của mẹ mình về việc thành lập Mother’s Day.  Với sự ủng hộ các bà mẹ trong các hội thánh và sự giúp đỡ của John Wanamaker, cựu Tổng Giám Đốc Bưu Điện Hoa Kỳ,  ý nguyện về việc thành lập ngày tưởng nhớ và tri ân các bà mẹ được loan truyền.  Sau đó, Anna Marie Jarvis tiếp tục vận động bằng nhiều cách để ngày tri ân các bà mẹ được trở thành ngày lễ chính thức.
Tháng Năm năm 1908,  một lễ kỷ niệm Mother’s Day chính thức được tổ chức tại nhà thờ Andrews Methodist Church.  Sau đó, một buổi lễ mở rộng cho công chúng được tổ chức tại Wanamaker Auditorium tại Philadelphia. Năm 1909, lễ Mother’s Day được tổ chức tại New York.  Năm 1910, Tiểu bang West Virginia chính thức công nhận lễ Mother’s Day.  Sau đó, các tiểu bang khác lần lượt công nhận ngày lễ này.  Ngày 8/5/1914, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua một đạo luật công bố Chúa Nhật thứ hai của tháng Năm là ngày Mother’s Day. Từ đó, Mother’s Day trở thành ngày lễ chính thức trên toàn nước Mỹ.
Hoa trong Ngày Lễ
Trong lần trở về Andrews Methodist Church tại Grafton, West Virginia vào năm 1907,  Anna Jarvis  và mỗi thân nhân đến dự lễ đều đeo một đóa cẩm chướng màu trắng, loài hoa mà bà Ann Maria Reeves Jarvis ưa thích.  Từ đó, vào dịp lễ Hiền Mẫu, những người có mẹ đã qua đời thường mang hoa cẩm chướng màu trắng.  Những người có mẹ còn sống mang hoa cẩm chướng màu đỏ sậm.
Hoa cẩm chướng (carnation), loài hoa mà bà Ann Maria Reeves Jarvis ưa thích, có tên khoa học là dianthus caryophyllus. Chữ dianthus trong tiếng La Tinh có nghĩa là hoa của tình yêu. Như nhiều loài hoa khác, màu hoa cẩm chướng mang những ý nghĩa khác nhau.  Cẩm chướng đỏ nhạt biểu tượng cho lòng cảm phục.   Cẩm chướng đỏ sậm thể hiện tình yêu sâu đậm.  Cẩm chướng trắng tượng trưng cho sự tinh khiết, ngọt ngào và nhẫn nại.  Cẩm chướng hồng bày tỏ lòng tri ân.  Người Việt chúng ta biết tình yêu của mẹ rộng lớn vô cùng.  Nhạc sĩ Y Vân đã so sánh lòng mẹ bao la như Thái Bình Dương.  Với nhận thức đó, nhiều người đã tặng cho mẹ mình một bó cẩm chướng đủ màu với dụng ý gói trọn tất cả những tình cảm sâu đậm nói trên cho mẹ. Thánh Kinh cho biết: Hiếm khi có phụ nữ nào quên cho con mình bú hay không yêu thương con ruột của mình. Trong ánh sáng của Thánh Kinh, vào dịp lễ Mother’s Day, mong bạn biết rằng ngoài người mẹ yêu dấu của bạn, có một người khác yêu bạn vô cùng.
Nguồn gốc Father’s Day 
Tháng 5 năm 1910, hai năm sau ngày Mother’s Day đầu tiên được tổ chức tại West Virginia, Mỹ, khi ngồi trong băng ghế nhà thờ tại Spokane, Washington dự lễ Mother’s Day, bà Sonora Smart Dodd nghe nhắc đến công ơn của người mẹ, chợt nhớ đến phụ thân của mình. Sorona mồ côi mẹ nên ký ức của người cha trong lòng Sorona thật khó phai.  Cha của Soroma là cụ William Jackson Smart.  Ông vốn là một cựu chiến binh trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ.  Từ giã chiến trường trở về, William Jackson Smart buông tay súng nắm tay cày làm lụng vất vả để nuôi sống gia đình. Chẳng may vợ ông mất khi sanh đứa con út.  Trong cảnh đơn chiếc, ông kiên trì làm lụng vất vả trong một trang trại nhỏ thuộc miền Đông của tiểu bang Washington để nuôi sáu đứa con – năm trai, một gái – thành người.
Khi mẹ mất, Sorona Smart Dodd, là con gái đầu lòng, đã giúp cha nuôi các em.  Nhớ lại tình thương của cha, Sorona Smart Dodd chợt liên tưởng đến bao nhiêu người cha khác khắp nơi đã hy sinh cuộc đời cho con cái.  Sorona quyết định kêu gọi thành lập một ngày để tưởng nhớ công ơn người cha.
Đề nghị tổ chức ngày Father’s Day của bà Sonora Smart Dodd được hưởng ứng nhanh chóng.  Những người ủng hộ mạnh mẽ nhất ý kiến này là các mục sư trong Mục Sư Đoàn và cơ quan Young Men’s Christian Association (YMCA) tại Spokane.
Bà Sonora Smart Dodd đề nghị tổ chức ngày Father’s Day vào ngày 5 tháng 6 năm đó để kỷ niệm sinh nhật của cụ William Jackson Smart. Tuy nhiên do thời gian chuẩn bị quá ngắn, chỉ có ba tuần lễ, cho nên mục sư quản nhiệm tại Hội Thánh của bà Sonora Smart Dodd đề nghị dời thêm hai tuần nữa. Các mục sư cần thời gian để chuẩn bị bài giảng cho một ngày lễ mới như vậy; đồng thời để đủ thời giờ thông báo cho các Hội Thánh khác cùng tổ chức.  Ngày Father’s Day đầu tiên được tổ chức vào ngày 19/6/1910.
Trong thời gian ấy, dư âm việc vận động thành lập ngày Mother’s Day của bà Anna Jarvis vẫn còn nóng hổi (1908).  Bên cạnh đó, tháng 7 năm 1908, Grace Golden Clayton, một tín hữu Tin Lành Giám Lý tại Fairmont, West Virginia, đã yêu cầu William Memorial Methodist Espiscopal Church tổ chức lễ tưởng niệm cho 210 người cha đã chết trong một tai nạn tại mỏ than vài tháng trước đó.  Do đó báo chí toàn quốc khi nghe tin các hội thánh tại thành phố Spokane dự định tổ chức lễ Father’s Day, tin tức được lan truyền thật nhanh.  Khắp Hoa Kỳ từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, dân chúng đồng lòng hưởng ứng.  Một trong những người mạnh mẽ ủng hộ ý kiến của bà Sonora Smart Dodd về việc quốc gia nên dành một ngày để tưởng nhớ công ơn người cha là chính trị gia William Jenning Bryan.  Ông cũng là người đã ủng hộ việc thành lập ngày Mother’s Day.    William Jenning Bryan đã viết thư cho bà Sonora Smart Dodd nói rằng:“Tình cha con thật sâu đậm, nồng nàn không nên để lãng quên.”
Tuy nhiên, việc Father’s Day trở thành quốc lễ tại Hoa Kỳ gặp nhiêu khê hơn so với việc thành lập Mother’s Day.  Lý do thật đơn giản:  Tất cả thành viên tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ khi ấy đều là nam giới; do đó, các ông nghĩ rằng thông qua một đạo luật để tri ân phái nam thì tự mình tâng bốc  mình.  Vì thế, dầu cho Mother’s Day được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua và Tổng Thống Woodrow Wilson ký duyệt vào năm 1914, dự luật về ngày Father’s Day không được thông qua.  Có lẽ Quốc Hội Hoa Kỳ dè dặt khi nhớ lại câu chỉ trích của Dân Biểu Simon Legree khi tranh luận về ngày Mother’s Day: “Không chừng rồi đây sẽ có ngày Father’s Day, Mother-in-Law’s Day hoặc Uncle’s Day nữa.” Dù Quốc Hội không thông qua, khắp nơi tại Hoa Kỳ, người dân vẫn tưởng niệm ngày Father’s Day.
Năm 1916, Tổng Thống Woodrow Wilson chính thức tham dự Father’s Day.  Năm 1924, Tổng Thống Calvin Coolidge gợi ý rằng nếu ngành lập pháp Hoa Kỳ muốn dành một ngày để tri ân người cha, Tổng Thống sẽ thông qua. Tổng Thống Calvin Coolidge đã viết thư cho Thống Đốc các tiểu bang như sau: “Việc tưởng niệm rộng rãi ngày lễ này trong những năm qua đã chứng minh cho tình cảm mật thiết giữa cha và con.  Ý nghĩa ngày lễ thật tốt đẹp vì nó cũng là dịp nhắc nhở người cha bổn phận của mình đối với con cái.” Dầu có những gợi ý tích cực từ phía hành pháp, giới lập pháp Hoa Kỳ vẫn phớt lờ đề nghị trên.

Trong suốt nửa thế kỷ tiếp theo, nhiều người đã ráng hết sức để vận động cho Father’s Day trở thành quốc lễ.  Một trong những người có nỗ lực đáng kể là Nữ Thượng Nghị Sĩ Margaret Chase Smith.  Năm 1957, bà đã viết cho những đồng viện của mình rằng: “Hoặc là chúng ta tri ân cả hai bậc sinh thành: cha và mẹ, hoặc chúng ta chấm dứt đãi ngộ có một bên.  Chỉ tri ân một trong hai bậc sinh thành của chúng ta và bỏ quên người kia là một điều sỉ nhục không tưởng tượng nỗi.”Mặc dù đã có phụ nữ can thiệp, và bằng những lời mạnh mẽ như vậy, nhưng Quốc Hội Hoa Kỳ chẳng chuyển lay.
Năm 1966, dự luật về Father’s Day một lần nữa lại được đề nghị.  Mãi 6 năm sau, Quốc Hội Hoa Kỳ mới chịu thông qua.  Năm 1972, Tổng Thống Richard Nixon nhanh chóng ký duyệt đạo luật và công bố Father’s Day trở thành một quốc lễ tại Hoa Kỳ.  Hằng năm quốc gia Hoa Kỳ tưởng niệm Father’s Day vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu.
Sau 62 năm kiên trì, dân chúng Hoa Kỳ đã thở phào nhẹ nhõm vì giờ đây hai đấng sinh thành đã được chính phủ coi trọng như nhau.  Mỗi năm có hơn 85 triệu cánh thiệp được bán ra trong dịp tri ân người cha.
Trở lại với câu nói của Dân Biểu Simon Legree, năm 1981 Hạ Viện Hoa Kỳ thông qua đạo luật Mother-in-Law’s Day.  Dự luật này chọn Chúa Nhật thứ tư của tháng Mười để cảm ơn mẹ chồng hay mẹ vợ.  Tuy nhiên, dự luật Mother-in-Law’s Day đã bị Thượng Viện Hoa Kỳ bác bỏ với lý do thật đơn giản.  Mẹ và cha ai cũng có, nhưng đâu phải ai cũng có mẹ chồng hay mẹ vợ.  Dành một ngày để tưởng niệm những vị này sẽ gây ấn tượng không tốt, và bất công, cho những người sống độc thân.
Dầu có lý luận hợp lý như vậy, nhiều người vẫn nghĩ rằng Quốc Hội Hoa Kỳ phủ quyết đạo luật Mother-in-Law’s Day vì “hội chứng Simon Legree” vẫn chưa phai.  Cho đến ngày nay, chưa có vị dân cử nào có ý định bảo trợ dự luật này trở lại.  Dầu có thành luật hay không, giới kinh doanh Hoa Kỳ vẫn cổ xướng đề nghị này.  Mỗi năm hơn một triệu cánh thiệp được gởi ra trong ngày lễ đó.
Thanh Long.

Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Huan Nguyen" field in the user admin panel.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét :

Đăng nhận xét